Scholar Hub/Chủ đề/#bệnh viện dã chiến cấp 2/
Bệnh viện dã chiến cấp 2 là một loại cơ sở y tế được xây dựng và trang bị trên cơ sở của bệnh viện hẻm, bệnh viện căn cứ hoặc từ các cơ sở y tế khác. Bệnh viện ...
Bệnh viện dã chiến cấp 2 là một loại cơ sở y tế được xây dựng và trang bị trên cơ sở của bệnh viện hẻm, bệnh viện căn cứ hoặc từ các cơ sở y tế khác. Bệnh viện này có khả năng tiếp nhận, chăm sóc và điều trị các trường hợp bệnh nhân liên quan đến một cuộc chiến tranh, thảm họa hoặc tình huống khẩn cấp. Bệnh viện dã chiến cấp 2 có thể cung cấp dịch vụ y tế vừa và nhỏ, bao gồm cả phẫu thuật nội trú và ngoại trú, từ các ca đơn giản đến phức tạp hơn.
Bệnh viện dã chiến cấp 2 thường được xây dựng và trang bị để đáp ứng nhu cầu y tế trong các tình huống khẩn cấp, như chiến tranh, thảm họa hay các tình huống khẩn cấp khác. Chức năng chính của bệnh viện dã chiến cấp 2 là cung cấp dịch vụ y tế phức tạp và phẫu thuật cho bệnh nhân.
Bệnh viện dã chiến cấp 2 có thể hoạt động như một đơn vị tịnh tiến bằng cách triển khai các gian hàng, nhà lều hay các cấu trúc di động khác. Đặc điểm của nó là có khả năng di chuyển nhanh và linh hoạt, nhằm đáp ứng nhu cầu y tế tại các khu vực cần thiết như trên các chiến trường, vùng miền bị thảm họa, hay trong các khu vực khó tiếp cận khác.
Bệnh viện dã chiến cấp 2 thường được trang bị các phòng chức năng như phẫu thuật, chăm sóc sau phẫu thuật, phòng x-quang, phòng chụp cộng hưởng từ (MRI), phòng siêu âm, phòng điều trị ICU, phòng cấp cứu và các phòng khám chuyên khoa. Ngoài ra, nó còn có khu vực tiếp nhận và chăm sóc bệnh nhân, phòng nội soi, phòng xét nghiệm và phòng cấp dung dịch.
Bệnh viện dã chiến cấp 2 do các đội y tế chuyên nghiệp quản lý và điều hành, bao gồm bác sĩ, y tá, kỹ thuật viên xét nghiệm và các nhân viên y tế khác. Mục tiêu của bệnh viện dã chiến cấp 2 là đáp ứng và cung cấp dịch vụ y tế tối ưu cho bệnh nhân trong bối cảnh khẩn cấp và thiếu hụt nguồn lực.
Bệnh viện dã chiến cấp 2 thường có khả năng tiếp nhận và xử lý những trường hợp bệnh nhân nghiêm trọng và phức tạp hơn so với bệnh viện dã chiến cấp 1. Nó được trang bị với các thiết bị y tế cần thiết để chẩn đoán và điều trị các bệnh tình, như máy chụp X-quang, máy siêu âm, máy điện tim, và máy hấp thụ oxy.
Bệnh viện dã chiến cấp 2 thường có những phòng chức năng riêng biệt, bao gồm:
1. Phòng khám chuyên khoa: Được sử dụng để chẩn đoán và điều trị các bệnh nhân theo chuyên khoa như nội, ngoại, chấn thương, mắt, tai mũi họng, răng hàm mặt, sản, nhi, tim mạch, hô hấp và ung thư.
2. Phòng phẫu thuật: Được trang bị các thiết bị y tế và vật liệu cần thiết để tiến hành các ca phẫu thuật tương đối phức tạp.
3. Phòng chăm sóc sau phẫu thuật: Được sử dụng để đảm bảo sự phục hồi và chăm sóc sau phẫu thuật cho bệnh nhân.
4. Phòng cấp cứu: Được trang bị để xử lý các trường hợp khẩn cấp và cấp cứu. Nó có thể được sử dụng để tiếp nhận và ổn định bệnh nhân trước khi chuyển đến phẫu thuật hoặc chuyển đến bệnh viện dã chiến cấp 3.
5. Phòng xét nghiệm: Được trang bị để thực hiện các xét nghiệm cơ bản để chẩn đoán và điều trị bệnh nhân.
6. Phòng điều trị ICU (Đơn vị chăm sóc đặc biệt): Được trang bị các thiết bị tối tân để giám sát và điều trị bệnh nhân nghiêm trọng.
Đội ngũ y tế của bệnh viện dã chiến cấp 2 thường được đào tạo chuyên sâu để xử lý các tình huống khẩn cấp và làm việc trong môi trường có nguồn lực hạn chế. Họ phải nhanh nhẹn, kiên nhẫn và có khả năng làm việc dưới áp lực cao để cung cấp chăm sóc y tế chất lượng cho bệnh nhân trong bối cảnh khẩn cấp.
ĐÁNH GIÁ MỨC ĐỘ HÀI LÒNG CỦA NGƯỜI BỆNH NGOẠI TRÚ TẠI BỆNH VIỆN DÃ CHIẾN CẤP 2 SỐ 4 VIỆT NAM THAM GIA LỰC LƯỢNG GÌN GIỮ HÒA BÌNH LIÊN HỢP QUỐC TẠI PHÁI BỘ NAM SUDAN Mục tiêu: Đánh giá mức độ hài lòng của người bệnh (NB) ngoại trú tại Bệnh viện dã chiến Cấp 2 số 4 Việt Nam tại Nam Sudan (BVDC2.4). Phương pháp nghiên cứu: Sử dụng phương pháp mô tả cắt ngang trên 126 NB là nhân viên Liên Hợp Quốc (LHQ), khám và điều trị ngoại trú tại BVDC2.4, tháng 4/2023. Kết quả: 97,61% NB dưới 40 tuổi, tỷ lệ nữ: 10,32%. Tỷ lệ hài lòng về khả năng tiếp cận: 85,56%; sự minh bạch thông tin và thủ tục khám bệnh, điều trị: 86,51%; cơ sở vật chất và phương tiện phục vụ NB: 80,56%; thái độ ứng xử, năng lực chuyên môn của nhân viên y tế: 92,59%; kết quả cung cấp dịch vụ: 87,50%. Kết luận: Tỷ lệ hài lòng của NB ngoại trú là 86,54% và đáp ứng được 86,75% so với mong đợi của NB.
#Dịch vụ bệnh viện #Bệnh viện Dã chiến cấp 2 số 4 #mức độ hài lòng
BÁO CÁO ĐIỀU TRỊ THÀNH CÔNG MỘT BỆNH NHÂN SAI KHỚP KHUỶU TẠI BỆNH VIỆN DÃ CHIẾN CẤP 2 SỐ 4 VIỆT NAM THAM GIA LỰC LƯỢNG GÌN GIỮ HÒA BÌNH LIÊN HỢP QUỐC TẠI PHÁI BỘ NAM SUDANSai khớp khuỷu gặp phổ biến hàng thứ hai trong các loại sai khớp. Tuy nhiên kể từ khi triển khai (tháng 10/2018), Bệnh viện Dã chiến cấp 2 Việt Nam tham gia lực lượng gìn giữ hòa bình Liên Hợp Quốc tại phái bộ Nam Sudan rất hiếm gặp bệnh nhân (BN) sai khớp khuỷu tới điều trị. Tháng 8/2022, tại Bệnh viện Dã chiến cấp 2 số 4 (BVDC2.4), chúng tôi điều trị BN nam 32 tuổi bị ngã chống bàn tay trái xuống đất trong tư thế khuỷu tay duỗi, vào viện với biểu hiện đau, sưng nề, biến dạng và bất lực vận động khuỷu tay trái. BN không có biến chứng tổn thương mạch máu thần kinh, hình ảnh chụp X-quang không có gãy xương vùng khuỷu. BN được nắn chỉnh và bất động khớp khuỷu 3 tuần, sau đó được tập vận động phục hồi chức năng khớp khuỷu trái. Sau 6 tuần điều trị biên độ vận động khớp khuỷu trái đạt như tay phải.
#Sai khớp #Khớp khuỷu #Sai khớp khuỷu #Bệnh viện Dã chiến cấp 2
ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG, CẬN LÂM SÀNG VÀ KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ NGƯỜI BỆNH SỐT RÉT TẠI BỆNH VIỆN DÃ CHIẾN CẤP 2 SỐ 4 VIỆT NAM Ở BENTIU, NAM SUDANMục tiêu: Mô tả đặc điểm dịch tễ, lâm sàng, cận lâm sàng và kết quả điều trị người bệnh sốt rét (NBSR) được điều trị nội trú tại Bệnh viện Dã chiến cấp 2 số 4 (BVDC 2.4) Việt Nam ở Bentiu, Nam Sudan. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu hồi cứu, mô tả trên 34 NBSR được chẩn đoán, điều trị tại BVDC 2.4 từ tháng 4/2022 - 7/2023. Kết quả: NBSR là nam giới chiếm đa số (94,12%), nhóm 20 - 39 tuổi chiếm tỷ lệ cao nhất (61,76%); tỷ lệ NBSR mắc bệnh cao nhất vào cuối mùa mưa (64,71%). Thời gian sốt trung bình là 2,59 ngày; rét run cao nhất ở ngày thứ 3 (88,24%); vã mồ hôi (61,76%); đau đầu, mỏi cổ, đau họng (94,12%, 91,18% và 67,65%). Tỷ lệ NBSR đái huyết cầu tố thấp (2,94%). Cơn sốt rét điển hình gặp ở 15 NBSR (44,12%). Phát hiện ký sinh trùng sốt rét (KSTSR): Test nhanh 100% dương tính, soi tiêu bản có 26 NBSR (76,47%) dương tính. Điều trị 34 NBSR (100%) khỏi bệnh. Kết luận: NBSR điều trị tại BVDC 2.4 với đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng đa dạng. Mắc bệnh chủ yếu vào cuối mùa mưa. Cơn sốt điển hình chiếm gần một nửa số NBSR. Tỷ lệ sốt rét đái huyết cầu tố thấp.
#Sốt rét #Bentiu #Nam Sudan #Bệnh viện Dã chiến cấp 2 số 4
QUY TRÌNH VẬN CHUYỂN Y TẾ ĐƯỜNG KHÔNG CỦA BỆNH VIỆN DÃ CHIẾN CẤP 2 VIỆT NAM THAM GIA LỰC LƯỢNG GÌN GIỮ HÒA BÌNH LIÊN HIỆP QUỐC TẠI PHÁI BỘ NAM SUDANVận chuyển y tế bằng đường không (MEDEVAC) là một nhiệm vụ đặc biệt của Bệnh viện Dã chiến cấp 2 (BVDC2) Việt Nam tham gia lực lượng Gìn giữ hòa bình Liên hiệp quốc (LHQ). Bài tổng quan nhằm trình bày quy trình vận chuyển đường không (MEDEVAC) của BVDC2 Việt Nam tại Bentiu, phái bộ Nam Sudan, bao gồm một số khái niệm, yêu cầu, ủy quyền, hoạt động và các điều khoản khác, đồng thời quy định trách nhiệm và hoạt động của các bên liên quan. Mục đích của MEDEVAC là đảm bảo việc vận chuyển bệnh nhân (BN) đến cơ sở y tế tuyến trên đúng hệ thống, kịp thời và an toàn nhất, phù hợp với từng BN, giảm thiểu thiệt hại về tính mạng và chi thể, đáp ứng tốt yêu cầu của LHQ.
#Vận chuyển y tế đường không #Bệnh viện Dã chiến cấp 2 #Liên hiệp quốc
KẾT QUẢ THU DUNG VÀ ĐIỀU TRỊ CỦA BỆNH VIỆN DÃ CHIẾN CẤP 2 SỐ 4 VIỆT NAM TẠI PHÁI BỘ GÌN GIỮ HÒA BÌNH LIÊN HỢP QUỐC NAM SUDANMục tiêu: Đánh giá kết quả thu dung và điều trị của Bệnh viện Dã chiến cấp 2 số 4 (BVDC 2.4) Việt Nam tại Nam Sudan trong nhiệm kỳ từ tháng 5/2022 - 7/2023. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu hồi cứu, mô tả cắt ngang, không đối chiếu trên 1474 người bệnh (NB) là nhân viên Liên Hợp Quốc (LHQ), khám và điều trị tại BVDC 2.4 Việt Nam - Nam Sudan, từ tháng 5/2022 - 7/2023. Kết quả: Trong nhiệm kỳ 14 tháng, BVDC 2.4 Việt Nam đã tiếp nhận 1474 NB, đa số < 40 tuổi (96,74%), tỷ lệ nữ giới là 10,24%, lực lượng vũ trang (quân đội và cảnh sát) là chủ yếu (66,96%), 100% ngôn ngữ giao tiếp là Tiếng Anh. Cơ cấu bệnh lý đa dạng, tập trung vào nhóm bệnh nội khoa (31,28%), cơ-xương-khớp (22,25%), chấn thương-vết thương (15,12), các bệnh lý truyền nhiễm (12,42%) và răng miệng (11,13%). Phẫu thuật 18 ca (viêm ruột thừa cấp là chủ yếu, chiếm 27,78%) và cấp cứu vận chuyển đường không 10 ca; đảm bảo an toàn 100%. Ngày điều trị trung bình nhóm phẫu thuật là 4,52 ± 1,08 và nhóm NB điều trị nội khoa nội trú là 5,39 ± 1,86 ngày. Kết luận: BVDC 2.4 Việt Nam hoàn thành tốt nhiệm vụ thu dung và điều trị tại Nam Sudan trong nhiệm kỳ từ tháng 5/2022 - 7/2023 với 1474 NB, đảm bảo đúng quy trình LHQ, an toàn tuyệt đối, không tai biến và biến chứng trong quá trình điều trị, tất cả các ca cấp cứu vận chuyển đường không đều kịp thời, an toàn và đúng chỉ định.
#Bệnh viện dã chiến cấp 2 #Liên hợp quốc
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ KHÔNG PHẪU THUẬT Ở BỆNH NHÂN BONG GÂN KHỚP CỔ CHÂN TẠI BỆNH VIỆN DÃ CHIẾN CẤP 2 VIỆT NAM - NAM XU ĐĂNGĐặt vấn đề: Bong gân khớp cổ chân là tình trạng tổn thương phức hợp dây chằng bên của khớp cổ chân. Tổn thương được điều trị bằng cách bất động; điều trị không phẫu thuật và can thiệp phẫu thuật. Bong gân khớp cổ chân chiếm tỷ lệ cao trong số các mặt bệnh chấn thương điều trị tại Bệnh viện Dã chiến cấp 2 Việt Nam. Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả của điều trị không phẫu thuật trong xử trí bong gân khớp cổ chân. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang không đối chứng trên 42 bệnh nhân (BN) được điều trị tại Bệnh viện Dã chiến cấp 2 Việt Nam tại Bentiu, Nam Xu Đăng với chẩn đoán bong gân khớp cổ chân một bên. Các BN được chẩn đoán dựa trên thăm khám lâm sàng và chụp X-quang khớp cổ chân. Khám khớp cổ chân được khám lại 5 ngày sau khi bị thương. BN bong gân độ I không được đưa vào nghiên cứu. Tất cả BN bong gân khớp cổ chân độ II và III đều được điều trị không phẫu thuật. Kết quả: Trong số 42 BN, có 30 BN (71,4%) là nam giới và 12 BN (28,6%) là nữ giới; Độ tuổi từ 24 - 45, tuổi trung bình 31 ± 2,4. 34 BN (80,9%) được chẩn đoán là bong gân độ II và 8 BN (19,1%) bong gân độ III. Khi bắt đầu điều trị, các trường hợp đều đau dữ dội (VAS: 8 - 10), cử động khớp cổ chân bị hạn chế và đau. Thử nghiệm ngăn kéo trước dương tính ở 8 BN (19,1%). Vào cuối tuần điều trị thứ 8 có 38/42 BN (90,5%) hết đau, không sưng nề, vận động khớp cổ chân không hạn chế, đạt sự hài lòng tối đa. Ở tuần thứ 12, 100% BN hồi phục hoàn toàn và rất hài lòng với việc điều trị. Kết luận: Đối với bong gân khớp cổ chân độ II và III, điều trị không phẫu thuật tại Bệnh viện Dã chiến cấp 2 Việt Nam giúp BN phục hồi sớm và đạt kết quả tốt.
#bong gân khớp cổ chân #Điều trị không phẫu thuật #bệnh viện dã chiến cấp 2